Nuôi con bằng sữa mẹ là gì? Nuôi con bằng sữa mẹ là việc cho bé bú hoàn toàn bằng sữa được tiết ra từ vú của người mẹ trong suốt 6 tháng đầu đời. Trong thời gian đó, trẻ chỉ bú mẹ mà không cần phải bổ sung bất kỳ thức ăn hay đồ đồ uống nào khác kể cả uống nước, trừ trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Từ 6 tháng tuổi, trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ kết hợp với việc ăn dặm thêm các nhóm thực phẩm để tăng cường dinh dưỡng. Nuôi con bằng sữa mẹ sẽ mang lại lợi ích cho cả người mẹ và con. Cụ thể:
1.Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ
1.1 Giúp trẻ tăng trưởng, phát triển hài hòa và phòng chống suy dinh dưỡng
– Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng hoàn hảo, dễ tiêu hóa, hấp thu đối với trẻ.
– Sữa mẹ có số lượng protein (đạm) ít hơn sữa động vật vì vậy rất phù hợp với chức năng đào thải khi thận của trẻ chưa trưởng thành. Bên cạnh đó protein trong sữa mẹ chủ yếu là protein dạng lỏng hòa tan, còn gọi là protein sữa (Whey protein) nên phù hợp với khả năng tiêu hóa và hấp thu của trẻ; còn protein trong sữa bò chủ yếu là casein (85%) nên khi vào dạ dày của trẻ nhỏ sẽ tạo thành các cục đông vón làm trẻ khó tiêu hóa và hấp thu, trẻ hay bị rối loạn tiêu hóa. Whey protein chứa các protein kháng khuẩn giúp trẻ có khả năng chống lại các bệnh nhiễm khuẩn.
– Lipid (chất béo) trong sữa mẹ chiếm 50% năng lượng, thành phần acid béo không no nhiều hơn acid béo no. Sữa mẹ có đủ các acid béo cần thiết, giúp cho quá trình hoàn thiện não bộ, võng mạc và làm vững bền mạch máu, như: acid béo không no một nối đôi(acid oleic), acid béo không no đa nối đôi (acid α-linoleic, acid linoleic), tiền tố của DHA (Decosahexaenoic acid) và ARA (arachidonic acid). Trong sữa động vật không có các acid béo này.
– Carbonhydrat (glucid và đường) trong sữa mẹ nhiều hơn sữa bò, cung cấp năng lượng, 85% là lactose tăng cường hấp thu calci và 15% là oligosaccharid hỗ trợ cho sự phát triển vi khuẩn có lợi cho trẻ.
– Sữa mẹ có đủ các vitamin (A, B1, B2, C …), khoáng chất (Calci, phospho …) và các nguyên tố vi lượng (sắt, kẽm, đồng, selen …) đáp ứng đủ nhu cầu trẻ nhỏ, giúp trẻ phòng chống thiếu vi chất và bảo vệ cơ thể chống quá trình oxy hóa.
1.2 Bảo vệ trẻ chống nhiễm khuẩn
– Sữa mẹ chứa các tế bào bạch cầu (lympho bào, đại thực bào), globulin miễn dịch (IgA, IgG, IgM), một số yếu tố kích thích sự phát triển của vi khuẩn Lactobacillus Bifidus (Lactose, Oligosaccharid, yếu tố Bifidus), giúp trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp, viêm tai, viêm màng não và nhiễm khuẩn tiết niệu.
– Sữa mẹ cũng chứa những kháng thể chống các bệnh nhiễm khuẩn mà bà mẹ đã từng mắc bệnh.
– Khi bà mẹ bị nhiễm khuẩn (1), các tế bào bạch cầu hoạt động và sản xuất kháng thể để bảo vệ người mẹ (2), một số tế bào bạch cầu đi tới vú và sản xuất kháng thể tại đó (3), các kháng thể này được tiết vào sữa để bảo vệ trẻ chống nhiễm khuẩn (4). Vì vậy khi mẹ bị bệnh nhiễm khuẩn thì vẫn có thể cho con bú, không nên cách ly mẹ và con.
– Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (2002), nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã chứng minh tỷ lệ mắc tiêu chảy, hô hấp, viêm tai giữa và dị ứng… ở trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 7 tháng đầu thấp hơn trẻ nuôi hỗn hợp.
– Kết quả nghiên cứu điều tra ban đầu của dự án Alive & Thrive tiến hành năm 2010 tại 15 tỉnh ở Việt Nam cũng chỉ ra rằng: Trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ít bị tiêu chảy hơn (5,7%) so với trẻ có bú mẹ và ăn thêm các loại thức ăn, đồ uống khác.
1.3 Giúp cải thiện tâm lý cho bà mẹ và trẻ
– Bà mẹ thường xuyên tiếp xúc, gần gũi con sẽ giúp gắn bó tình cảm mẹ và con, bà mẹ cảm thấy thoải mái tinh thần, yên tâm và giảm được sự lo âu, trầm cảm sau sinh.
– Trẻ được tiếp xúc gần gũi mẹ, được âu yếm sẽ ít khóc hơn, cảm giác an toàn hơn, tinh thần, trí tuệ trẻ phát triển tốt hơn.
1.4 Góp phần bảo vệ sức khỏe bà mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp bà mẹ:
– Giảm nguy cơ băng huyết, thiếu máu sau sinh;
– Giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng;
– Chậm có thai trở lại (đặc biệt là giai đoạn NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu sẽ đạt hiệu quả cao trong việc tránh thai an toàn);
– Hồi phục nhanh cân nặng, vóc dáng ban đầu.
1.5 Chi phí ít hơn so với nuôi nhân tạo
Nuôi con bằng sữa mẹ chi phí ít hơn so với nuôi nhân tạo, tiết kiệm được kinh tế cho gia đình, cộng đồng và ngân sách quốc gia.
1.6 Góp phần bảo vệ sức khỏe của trẻ trong quá trình trưởng thành
Sữa mẹ bảo vệ trẻ không tăng cân quá mức (thừa cân, béo phì) nhất là trong hai năm đầu đời và giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính khi trưởng thành (tiểu đường, tim mạch, huyết áp …). Do sữa mẹ có các hormone Leptin, Ghrelin, IGF-1 (Insulin Growth Factor 1) tham gia điều chỉnh ăn uống và cân bằng năng lượng.
2. Những bất lợi khi nuôi trẻ bằng sản phẩm thay thế sữa mẹ, cho trẻ bú bình và vú ngậm nhân tạo
Thức ăn thay thế sữa mẹ được chế biến từ nhiều loại sữa khác nhau (sữa động vật, sữa đậu nành và dầu thực vật). Các loại sữa này mặc dù đã được điều chỉnh, chế biến để giống với thành phần sữa mẹ nhưng vẫn không thể hoàn hảo như sữa mẹ. Vì vậy nuôi trẻ bằng sản phẩm thay thế sữa mẹ, cho trẻ bú bình và vú ngậm nhân tạo sẽ có nhiều bất lợi.
2.1 Những bất lợi khi nuôi trẻ bằng sản phẩm thay thế sữa mẹ:
– Hạn chế gắn bó mẹ và con, giảm mối quan hệ gần gũi yêu thương giữa mẹ và con;
– Trẻ dễ bị tiêu chảy và tiêu chảy kéo dài, do đặc điểm protein trong sữa động vật không phù hợp với khả năng tiêu hóa và hấp thu của trẻ;
– Trẻ dễ bị nhiễm khuẩn, nhất là nhiễm khuẩn hô hấp, vì thức ăn nhân tạo không có yếu tố kháng khuẩn;
– Trẻ dễ bị dị ứng như chàm, hen suyễn và không dung nạp sữa;
– Trẻ dễ bi suy dinh dưỡng, thiếu vi chất, thiếu vitamin đặc biệt là vitamin A, do trẻ ăn quá ít hoặc sữa quá loãng;
– Trẻ ăn quá nhiều sữa nhân tạo sẽ gây thừa cân, béo phì;
– Trẻ sẽ tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính khi trưởng thành (tiểu đường, tim mạch…);
– Chỉ số thông minh của trẻ thường thấp hơn so với trẻ nuôi bằng sữa mẹ;
– Bà mẹ không NCBSM dễ có thai sớm; dễ có nguy cơ bị thiếu máu sau sinh và tăng nguy cơ mắc ung thư vú, ung thư buồng trứng sau này.
2.2. Những bất lợi khi cho trẻ bú bình và vú ngậm nhân tạo:
– Bình bú và vú ngậm nhân tạo dễ bị nhiễm khuẩn vì khó vệ sinh làm cho trẻ có nhiều nguy cơ mắc nhiễm khuẩn đường tiêu hóa.
– Trẻ quen với núm vú cao su và vú ngậm nhân tạo nên sẽ từ chối vú mẹ khi cho trẻ bú mẹ. Vì vậy trẻ sẽ bú ít đi, làm giảm khả năng tạo sữa, dẫn đến bà mẹ sẽ không đủ sữa nuôi trẻ.
Do đó, chúng ta nên:
¤ Nuôi con bằng sữa mẹ
¤ Cho trẻ bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh
– Không cho trẻ uống các loại nước uống trước bữa bú đầu tiên như cam thảo, mật ong, nước đường hoặc sữa công thức để tránh ảnh hưởng đến việc tạo sữa sau này của bà mẹ.
¤ Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
– Chỉ cho trẻ bú mẹ mà không cho ăn, uống bất cứ thức ăn, nước uống nào khác kể cả nước trắng, trừ các trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, khoáng chất hoặc thuốc.
– Sữa mẹ chứa 88% nước nên bà mẹ không cần cho trẻ uống thêm nước khi trẻ được bú mẹ hoàn toàn. Bà mẹ cần cho trẻ bú thường xuyên hơn nếu trẻ có dấu hiệu khát.
¤ Cho trẻ bú kéo dài đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn
– Từ 6 tháng đến 24 tháng, sữa mẹ vẫn là nguồn quan trọng cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Tuy nhiên sữa mẹ sẽ không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng ngày càng tăng lên theo sự phát triển của trẻ, vì vậy cần cho trẻ bú kéo dài đến 24 tháng hoặc lâu hơn cùng với chế độ ăn bổ sung hợp lý./.
BSCKI. Lê Minh Tín
(Tài liệu tham khảo: Nuôi Dưỡng Trẻ Nhỏ, Bộ Y Tế, 2015, Tài liệu dùng cho Cán bộ Y tế công tác trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em tại các tuyến )