Người dịch: BS Lê Minh Châu
(Khoa sanh – BV Sản Nhi An Giang)
TỔNG QUAN
Bối cảnh
Nhiều phụ nữ mang thai ở Mỹ đang được tiêm vaccine mRNA Covid-19, nhưng dữ liệu về tính an toàn của vaccine trong thai kỳ còn giới hạn.
Phương pháp
Từ ngày 14 tháng 12, 2020, đến ngày 28 tháng 2, 2021, chúng tôi đã sử dụng dữ liệu từ hệ thống khảo sát “v-safe after vaccination health checker (kiểm tra sức khỏe v-safe sau tiêm vaccine)”, hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, và Hệ thống báo cáo biến cố bất lợi của vaccine (VAERS) để bước đầu mô tả các đặc điểm về tính an toàn của vaccine mRNA Covid-19 ở phụ nữ mang thai.
Kết quả
Tổng cộng 35.691 người tham gia v-safe từ 16-54 tuổi được xác định là có thai. Đau nơi tiêm được báo cáo thường gặp hơn ở những phụ nữ mang thai so với những phụ nữ không mang thai, trong khi đau đầu, đau cơ, ớn lạnh, và sốt ít gặp hơn. Trong số 3958 người tham gia hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, 827 đã hoàn tất thai kỳ, trong đó 115 (13,9%) bị mất thai và 712 (86,1%) có kết cục sanh thai sống (chủ yếu trong những người tham gia được tiêm vaccine vào tam cá nguyệt thứ 3). Kết cục bất lợi đối với sơ sinh là sanh non (trong 9,4%) và trọng lượng nhỏ so với tuổi thai (trong 3,2%); không có tử vong sơ sinh. Mặc dù không được so sánh trục tiếp, tỉ lệ tính toán của kết cục bất lợi trong thai kỳ và sơ sinh ở những người được tiêm vaccine phòng Covid-19 và có hoàn tất thai kỳ tương đương với tỉ lệ được báo cáo trong các nghiên cứu có phụ nữ mang thai thực hiện trước khi xảy ra đại dịch Covid-19. Trong số 221 trường hợp biến cố bất lợi liên quan đến thai kỳ được báo cáo bởi VAERS, biến cố bất lợi được báo cáo nhiều nhất là sẩy thai (46 ca)
Kết luận
Những kết quả sơ bộ không cho thấy các dấu hiệu an toàn hiển nhiên trong các phụ nữ mang thai được tiêm vaccine mRNA Covid-19. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu theo dõi tiến cứu, bao gồm các theo dõi với số lượng lớn các phụ nữ được tiêm sớm trong thai kỳ, là điều cần thiết để thông tin các kết cục cho mẹ, thai kỳ, và cho trẻ sơ sinh.
Vaccine bệnh do Coronavirus 2019 (Covid-19) đầu tiên có mặt tại Mỹ là vaccine mRNA: BNT162b2 (Pfizer-BioNTech) và mRNA-1273 (Moderna). Tháng 12 năm 2020, vaccine được cấp Giấy phép sử dụng khẩn cấp (EUA) bởi Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) với liệu trình 2 liều, cách nhau 3 tuần đối với Pfizer-BioNTech và 1 tháng đối với Moderna, và được khuyến cáo sử dụng bởi Ủy ban tư vấn thực hành tiêm chủng (ACIP). Phụ nữ mang thai đã được loại khỏi các nghiên cứu lâm sàng được ủy quyền trước, và chỉ có các dữ liệu về con người hạn chế đối với tính an toàn khi sử dụng trong thai kỳ vào thời điểm được cấp phép. Tuy nhiên, phụ nữ mang thai mắc Covid-19 tăng nguy cơ với các bệnh nặng (vd: phải nhập vào khoa ICU, sử dụng ECMO, hoặc thở máy) và tử vong, so với những người không mang thai trong độ tuổi sinh sản. Ngoài ra, phụ nữ mang thai mắc Covid-19 có thể tăng nguy cơ xảy ra kết cục bất lợi thai kỳ, như sanh non, so với các sản phụ không mắc Covid-19. Trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh tât (CDC) và ACIP, kết hợp với Trường sản phụ khoa Hoa Kỳ và Viện Nhi khoa Hoa Kỳ, đã đưa ra hướng dẫn cho thấy rằng vaccine Covid-19 không nên tránh ở những phụ nữ mang thai.
Theo dõi sau cấp phép ở những phụ nữ mang thai là cần thiết để mô tả các đặc điểm về tính an toàn của các vaccine Covid-19 mới này, sử dụng công nghệ mRNA, hạt lipid nano, và quá trình sản xuất tiên tiến nhất. Ngoài ra, xây dựng hồ sơ an toàn của các vaccine này là điều kiện tiên quyết để ban hành khuyến cáo sử dụng vaccine phòng Covid-19 ở thai phụ. Chúng tôi báo cáo các kết quả sơ bộ về tính an toàn của vaccine mRNA Covid-19 ở phụ nữ mang thai từ 3 hệ thống theo dõi an toàn vaccine của Mỹ: hệ thống khảo sát “đánh giá sức khỏe v-safe sau tiêm chủng”, hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, và Hệ thống báo cáo biến cố bất lợi của vaccine (VAERS)
PHƯƠNG PHÁP
HỆ THỐNG THEO DÕI VÀ DÂN SỐ THEO DÕI
Hệ thống khảo sát V-safe và Hồ sơ đăng ký thai kỳ
V-safe là một hệ thống khảo sát chủ động dựa trên điện thoại mới của CDC được phát triển cho chương trình tiêm chủng Covid-19; tham gia tự nguyện. V-safe gửi tin nhắn đến những người tham gia đường link trang web thực hiện khảo sát trực tuyến để đánh giá các phản ứng bất lợi và tình trạng sức khỏe sau tiêm chủng. Theo dõi tiếp 12 tháng sau liều cuối cùng của vaccine Covid-19. Trong tuần đầu tiên sau tiêm (bất kỳ liều nào) vaccine Covid-19, người tham gia sẽ báo cáo sơ bộ về các dấu hiệu và triệu chứng tại chỗ và toàn thân trong các khảo sát hằng ngày và đánh giá theo mức độ nhẹ, trung bình, nặng; các khảo sát tại mọi thời điểm đánh giá các biến cố về tác dụng bất lợi cho sức khỏe. Nếu người tham gia báo cáo rằng họ cần chăm sóc y tế vào bất kỳ thời điểm nào, họ sẽ được yêu cầu hoàn tất một báo cáo cho VAERS thông qua điện thoại trực tiếp.
Để xác định người đã tiêm một hoặc hai liều vaccines Covid-19 trong lúc mang thai hoặc có thai sau khi tiêm chủng Covid-19, khảo sát v-safe bao gồm các câu hỏi về thai kỳ cho những người không báo cáo giới tính là nam. Những người được xác định là mang thai sau đó được liên hệ qua điện thoại và, nếu họ đủ tiêu chuẩn, sẽ được đề nghị tham gia vào hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe. Những người đủ tiêu chuẩn là các đối tượng được chủng ngừa khi mang thai hoặc trong thời kì trước mang thai (30 ngày trước kinh cuối đến 14 ngày sau kinh cuối) và từ 18 tuổi trở lên. Đối với những người tham gia, khảo sát đăng ký thai kỳ qua điện thoại sẽ thu thập các thông tin chi tiết về người tham gia, bao gồm tiền sử y khoa và sản khoa, biến chứng thai kỳ, kết cục sanh, và thông tin liên lạc cho nhân viên chăm sóc sức khỏe sản khoa và nhi khoa để tạo bệnh án y khoa; trẻ sẽ được theo dõi trong 3 tháng đầu. Các thông tin về phương pháp v-safe và hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe đã được công bố trước đó.
VAERS
VAERS là hệ thống báo cáo tự động của quốc gia được xây dựng năm 1990 và quản lý bởi CDC và FDA. Ai cũng có thể gửi báo đến VAERS. Nhân viên chăm sóc sức khỏe được yêu cầu báo cáo các biến cố bất lợi sau tiêm chủng, bao gồm biến chứng liên quan đến thai kỳ cần phải nhập viện và các dị tật bẩm sinh, dưới các điều kiện của EUA dành cho vaccine Covid-19; CDC khuyến khích việc báo cáo bất cứ biến cố lâm sàng nghiêm trọng nào cho sản phụ và nhũ nhi. Dấu hiệu và triêu chứng của các biến cố bất lợi được mã hóa bằng Từ điển y học dành cho hoạt động quản lý (MedDRA), phiên bản 23.1. Chúng tôi sử dụng một câu hỏi về tình trạng thai kỳ trong mẫu của VAERS và một mã MedDRA và tìm kiếm dãy chữ để xác định các báo cáo có liên quan đến tiêm chủng ở phụ nữ mang thai
KẾT CỤC
Các kết cục v-safe bao gồm phản ứng tại chỗ và toàn thân do người tham gia báo cáo đối với vaccine BNT162b2 (Pfizer-BioNTech) và vaccine mRNA-1273 (Moderna) vào ngày sau tiêm chủng trong các phụ nữ mang thai từ 16-54 tuổi và nhóm so sánh là các phụ nữ không mang thai từ 16-54 tuổi. Để phân tích kết cục thai kỳ trong hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, dữ liệu được giới hạn thành hoàn tất thai kỳ (vd: sinh trẻ sống, sẩy thai, gây sẩy thai, hoặc thai lưu). Các kết cục thai kỳ do người tham gia báo cáo bao gồm mất thai (sẩy thai và thai lưu) và kết cục sơ sinh (sinh non, dị tật bẩm sinh, thai nhỏ so với tuổi thai, và tử vong sơ sinh) (Bảng S1 trong phần Phụ lục). Trong VAERS, các kết cục bao gồm các biến cố đặc hiệu không phải của thai kỳ và các biến cố đặc hiệu của thai kỳ và sơ sinh.
PHÂN TÍCH THỐNG KÊ
Thông tin nhân khẩu học và đặc điểm thai kỳ được mô tả đối với những người tham gia v-safe và VAERS. Phân tích mô tả được thực hiện với các dữ liệu khảo sát v-safe cho những người được xác định có thai từ ngày 28 tháng 2, 2021 (35.691 người); những người tham gia vào hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe được tiêm chủng từ ngày 28 tháng 2, 2021 (3958 người); và các báo cáo của VAERS bao gồm phụ nữ mang thai được tiêm từ ngày 28 tháng 2, 2021 (221 người. Phản ứng tại chỗ và toàn thân được so sánh giữa phụ nữ mang thai và không mang thai. Phân tích mô tả được thực hiện bằng phần mềm SAS, phiên bản 9.4 (Viện SAS). Tất cả hoạt động được đánh giá bởi CDC và được thực hiện theo luật liên bang và chính sác của CDC.
KẾT QUẢ
KHẢO SÁT V-SAFE: PHẢN ỨNG TOÀN THÂN VÀ TẠI CHỖ Ở NHỮNG PHỤ NỮ MANG THAI
Từ ngày 14 tháng 12, 2020 đến ngày 28 tháng 2, 2021, tổng cộng 35.691 người tham gia v-safe được xác nhận có thai. Phân bố tuổi tương đồng giữa 2 nhóm tiêm vaccine Pfizer-BioNTech và Moderna, với đa số người tham gia từ 25-34 tuổi (61,9% và 60,6% cho mỗi nhóm) và nhóm da trắng không có gốc Tây Ban Nha (76,2% và 75,4%); phần lớn người tham gia (85,5% và 87,4%) báo cáo mang thai vào thời điểm tiêm chủng (Bảng 1). Các báo cáo về đau nơi tiêm, mệt mỏi, đau đầu, và đau cơ là các phản ứng tại chỗ và toàn thân thường gặp nhất sau tiêm đối với cả hai loại vaccine (Bảng 2) và được báo cáo là thường gặp hơn sau liều thứ 2 ở cả hai loại vaccine. Nhiệt độ do người tham gia tự đo từ 380C trở lên nhỏ hơn 1% số người tham gia vào ngày thứ 1 sau liều thứ 1 và khoảng 8% sau liều thứ 2 ở cả hai loại vaccine
Các mẫu báo cáo này, đối với cả hai nhóm: phản ứng thường gặp nhất và phản ứng cao hơn sau liều thứ 2, tương đương với các mẫu quan sát ở những phụ nữ không mang thai (Hình 1). Có sự khác biệt nhỏ về tỉ lệ phản ứng đặc hiệu giữa nhóm phụ nữ mang thai và không mang thai ( đau nơi tiêm thường gặp hơn ở những phụ nữ mang thai, và những phản ứng toàn thân khác thường gặp ở những phụ nữ không mang thai), nhưng tổng các phản ứng thì tương đương nhau. Phụ nữ mang thai không báo cáo xảy ra phản ứng nghiêm trọng nhiều hơn so với nhóm không mang thai, ngoại trừ buồn nôn và nôn, tăng nhẹ hơn chỉ sau khi tiêm liều 2 (Bảng S3).
HỒ SƠ ĐĂNG KÝ THAI KỲ V-SAFE: KẾT CỤC THAI KỲ VÀ SƠ SINH
Vào ngày 30 tháng 3, 2021, trung tâm tiếp nhận hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe đã cố gắng liên hệ với 5230 người được tiêm ngừa từ ngày 28 tháng 2, 2021, và những người được xác định có thai vào thời điểm tiêm hoặc thời gian ngắn sau tiêm vaccine Coivd-19. Trong những người này, 912 người không liên hệ được, 86 người từ chối tham gia, và 274 người không đủ tiêu chuẩn (vd: không bao giờ có thai, có thai nhưng được tiêm vaccine hơn 30 ngày trước kỳ kinh cuối, hoặc không cung cấp đủ thông tin cần thiết). Hồ sơ đăng ký bao gồm 3958 người tham gia được tiêm chủng từ ngày 14 tháng 12, 2020 đến ngày 28 tháng 2, 2021, trong đó 3719 (94,0%) được xác định là nhân viên y tế. Trong những người tham gia, phần lớn từ 25-44 tuổi (98,8%), người da trắng không có gốc Tây Ban Nha (TBN) (79,0%), và, vào thời gian phỏng vấn, không có báo cáo mắc Covid-19 trong lúc mang thai (97,6%) (Bảng 3). Có 92 (2,3%) người nhận liều vaccine đầu đủ tiêu chuẩn vào hồ sơ đăng ký trong thời kỳ trước mang thai, 1132 người (28,6%) trong 3 tháng đầu, 1714 người (43,3%) trong 3 tháng giữa, và 1019 người (25,7%) trong 3 tháng cuối (1 người bị mất thông tin thời gian tiêm ngừa) (Bảng 3). Trong 1040 người tham gia (91,9%) được tiêm vaccine vào 3 tháng đầu và 1700 người (99,2%) được tiêm vào 3 tháng giữa, dữ liệu ban đầu được thu thập và theo dõi theo lịch cách nhau 10 – 12 tuần; các cuộc gọi theo dõi hạn chế được thực hiện vào thời điểm phân tích.
Trong 827 người tham gia đã hoàn tất thai kỳ, kết quả thai kỳ trẻ sinh sống là 712 (86,1%), sẩy thai là 104 (12,6%), thai lưu là 1 (0,1%), và các kết cục khác (gây sẩy thai và thai ngoài tử cung) là 10 (1,2%). Tổng cộng 96 trong 104 trường hợp sẩy thai (92,3%) xảy ra trước tuần lễ thứ 13 của thai kỳ (Bảng 4), và 700 trong 712 thai kỳ có kết quả trẻ sống (98,3%) là những người được tiêm ngừa liều thứ nhất vào 3 tháng cuối thai kỳ. Kết cục bất lợi trong 724 trẻ sinh sống – bao gồm 12 trường hợp đa thai – là sanh non (60 trong 636 được tiêm ngừa trước 37 tuần [9,4%], thai nhỏ so với tuổi thai (23 trong 724 [3,2%]), và dị tật bẩm sinh nặng (16 trong 724 [2,2%]); không có báo cáo tử vong sơ sinh vào thời điểm phỏng vấn. Trong những người tham gia hoàn tất thai kỳ với thai dị tật bẩm sinh, không có ai được tiêm vaccine Covid-19 vào 3 tháng đầu thai kỳ hoặc thời kỳ trước mang thai, và không quan sát thấy dị tật bẩm sinh đặc hiệu nào. Tỉ lệ tính toán kết cục thai kỳ và sơ sinh dường như tương đồng với tỉ lệ hiện mắc được công bố ở báo cáo được bình duyệt trước đó (Bảng 4).
BIẾN CỐ BẤT LỢI TRONG VAERS
Trong quá trình phân tích, VAERS đã nhận và xử lý 221 báo cáo liên quan đến tiêm ngừa Covid-19 ở phụ nữ mang thai; 155 (70,1%) liên quan đến các biến cố bất lợi không phải của thai kỳ, và 66 (29,9%) biến cố bất lợi liên quan đến thai kỳ hoặc sơ sinh (Bảng S4). Biến cố liên quan đến thai kỳ được báo cáo nhiều nhất là sẩy thai (46 trường hợp; 37 trường hợp trong 3 tháng đầu, 2 trường hợp trong 3 tháng giữa, và 7 trường hợp không biết hoặc không báo cáo về tuổi thai), kế đến là thai lưu, ối vỡ non, và xuất huyết âm đạo, với 3 trường hợp cho mỗi biến cố. Không có trường hợp dị tật bẩm sinh nào được báo cáo cho VAERS, một yêu cầu của EUA.
BÀN LUẬN
Khảo sát này của Mỹ đánh giá tính an toàn của vaccine mRNA Covid-19 trong lúc mang thai và thời kỳ trước mang thai cho thấy rằng một số phụ nữ mang thai ở mọi tuổi thai tại Mỹ muốn được tiêm ngừa vaccine chống lại Covid-19. Các phản ứng tại chỗ và toàn thân được yêu cầu báo cáo lại cho hệ thống khảo sát v-safe tương đương giữa những phụ nữ mang thai và không mang thai. Mặc dù không được so sánh trực tiếp, tỉ lệ kết cục biến cố thai kỳ và sơ sinh (vd: mất thai, sanh non, thai nhỏ so với tuổi thai, dị tật bẩm sinh và tử vong sơ sính) trong những người hoàn tất thai kỳ từ hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe dường như tương đương với tỉ lệ hiện mắc của nghiên cứu ở đối tượng mang thai được công bố trước khi xảy ra đại dịch Covid-19. Nhiều người tham gia vào hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe nằm trong nhóm ưu tiên pha 1a (cao nhất) để tiêm ngừa Covid-19 do họ là nhân viên y tế. Tham gia v-safe là tự nguyện, và thông tin đăng ký không đồng bộ ở tất cả các địa điểm tiêm ngừa, mặc dù thông tin về hệ thống khảo sát nằm trên tờ thông tin của EUA dành cho nhân viên y tế và bệnh nhân. Ngoài ra, so sánh tỉ lệ của những phụ nữ được tiêm ngừa có các kết cục trên với những nghiên cứu đã công bố trước đó còn hạn chế bởi sự khác nhau giữa các dân số này về tuổi, dân tộc, và các đặc điểm xã hội, nhân khẩu học và lâm sàng mà chúng đều có liên quan đến kết cục thai kỳ và sơ sinh. Tuy nhiên, các so sánh này vẫn có ích cho việc cung cấp cảm nhận ban đầu liệu có bất kỳ tín hiệu bất ngờ nào về tính an toàn trong những dữ liệu đàu tiên này hay không. Vào thời điểm phân tích, chỉ có 14,7% người được xác định mang thai trong hệ thống khảo sát v-safe liên hệ để tham gia vào hồ sơ đăng ký thai kỳ.
Những hạn chế khác cũng được ghi nhận. Giống như nhiều hệ thống khảo sát dựa vào báo cáo của người tham gia khác, sai sót trong hoàn thành khảo sát sức khỏe v-safe có thể dẫn đến phân loại sai đối tượng tham gia là có mang thai; và kết quả là dữ liệu về phản ứng tại chỗ và thân mà người tham gia báo cáo về nền tảng v-safe có thể bao gồm những báo cáo từ những người không mang thai. Người tham gia không cần phải hoàn thành khảo sát vào cùng thời điểm mỗi ngày, và do đó sự đánh giá về thời điểm khởi phát hoặc thời gian của các biến cố bất lợi, như sốt, còn hạn chế. Dữ liệu của hồ sơ đăng ký chỉ là sơ bộ, từ một mẫu nhỏ, và mô tả phần lớn kết cục sơ sinh từ tiêm ngừa trong 3 tháng cuối; kết quả tìm được có thể thay đổi khi kết cục thai kỳ được báo cáo thêm và cỡ mẫu tăng lên. Chúng tôi không thể đánh giá các kết cục biến cố xảy ra do phơi nhiễm sớm trong thai kỳ, ví dụ như dị tật bẩm sinh, bởi vì các thai phụ được tiêm ngừa vẫn chưa sanh cho đến hiện tại trong hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, vẫn còn tiếp tục theo dõi. Ngoài ra, tỉ lệ phụ nữ mang thai báo cáo bị sẩy thai có thể không phản ánh chính xác tỉ lệ sau tiêm vaccine bởi vì những người tham gia có thể được tiêm ngừa sau giai đoạn nguy cơ cao nhất của 3 tháng đầu, và mất thai rất sớm có thể không được ghi nhận. Trong khi một số thai kỳ đã hoàn tất và đã được tiêm vaccine vào 3 tháng đầu và giai đoạn đầu của 3 tháng giữa, đa số vẫn còn đang mang thai, và so sánh trực tiếp kết cục dựa vào thời điểm tiêm ngừa là điều cần thiết để xác định tỉ lệ sẩy thai trong nghiên cứu đoàn hệ. Bởi vì cỡ mẫu hạn chế, kết cục thai kỳ và sơ sinh được tính bằng tỉ lệ (proportion) thay vì tỉ lệ (rate).
Các phân tích sơ bộ của chúng tôi sử dụng dữ liệu của người tham gia và có sư hạn chế về thông tin đối với các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn cho kết cục thai kỳ và sơ sinh. VAERS là vấn đề của hạn chế trong khảo sát thụ động. Mặc dù EUA có các yêu cầu báo cáo bắt buộc và hướng dẫn của CDC đối với báo cáo VAERS, vẫn có khả năng nhiều báo cáo các biến cố bất lợi đặc hiệu của thai kỳ và sơ sinh không được gởi về. Chúng tôi cũng không biết tổng số liều vaccine Covid-19 được tiêm cho phụ nữ mang thai, cũng là một hạn chế để chúng tôi có thể đánh giá tỉ lệ biến cố bất lợi được báo cáo từ dữ liệu của VAERS. Trong các tình trạng liên quan đến thai kỳ được báo cáo tới VAERS sau khi tiêm ngừa Covid-19, sẩy thai thường gặp nhất. Điều này cũng tượng tự với những quan sát trong đại dịch cúm A (H1N1) vào năm 2009 sau khi đưa ra vaccine cúm bất hoạt H1N1 2009, sẩy thai cũng là biến cố bất lợi thường gặp nhất báo cáo từ những phụ nữ mang thai được tiêm ngừa.
Ngoài sự bảo vệ của vaccine chống lại Covid-19 cho phụ nữ mang thai và những biến chứng của nó trong thai kỳ, các bằng chứng mới đây cho thấy kháng thể SARS-CoV-2 sau khi thai phụ được tiêm vaccine Covid-19 truyền qua nhau thai trong 3 tháng cuối thai kỳ, điều này gợi ý rằng tiêm ngừa cho thai phụ trong một mức độ nào đó có thể bảo vệ cho sơ sinh. Tuy nhiên, chúng tôi không có dữ liệu về vấn đề truyền kháng thể và mức độ bảo vệ liên quan đến thời điểm tiêm vaccine như thế nào. CDC và FDA vẫn tiếp tục theo dõi và phổ biến thông tin về tính an toàn của vaccine mRNA và các loại vaccine khác ngừa Covid-19 ở phụ nữ mang thai
Các dữ liệu ban đầu từ hệ thống khảo sát v-safe, hồ sơ đăng ký thai kỳ v-safe, và VAERS không cho thấy bất kỳ dấu hiệu về tính an toàn hiển nhiên nào đối với kết cục thai kỳ và sơ sinh liên quan đến tiêm ngừa Covid-19 trong 3 tháng cuối thai kỳ. Cần phải tiếp tục theo dõi để đánh giá kết cục mẹ, thai kỳ, sơ sinh, và trẻ sau sinh liên quan đến tiêm ngừa Covid-19, bao gồm giai đoạn sớm của thai kỳ và thời kỳ trước mang thai. Trong khi đó, các dữ liệu hiện tại có thể giúp đưa ra thông tin về việc quyết định tiêm ngừa vaccine cho phụ nữ mang thai và nhân viên y tế.
Tài liệu tham khảo:
https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/nejmoa2104983