Trong cuộc chiến chống virus SarCovi -2 hiện nay máy giúp thỏ là một vũ khí quan trọng của các y bác sĩ trong việc điều trị bện nhân.Vai trò của máy thở là hỗ trợ cho bệnh nhân khi có tình trạng suy hô hấp để đảm bảo chức năng thông khí và trao đổi khí.
Theo Time, con người bắt đầu sử dụng các phương tiện cơ học để thông khí cho bệnh nhân từ cuối thế kỷ XVIII. Khi ấy các bác sĩ thuộc Hiệp hội Nhân đạo Hoàng gia Anh sử dụng ống thổi giống loại những người thợ rèn hay dùng thời điểm đó để đưa không khí trực tiếp vào phổi bệnh nhân.
Kỹ thuật hô hấp này được gọi là “thông khí áp lực dương”. Tuy thời điểm đó nó chưa thực sự mang lại hiệu quả nhưng đã chứng minh được rằng đó là một trong những cách tốt nhất để hỗ trợ bệnh nhân hô hấp tốt hơn.
Đến năm 1830, một bác sĩ người Scotland sáng chế ra chiếc “hộp kín chứa khí”. Thay vì đẩy không khí thẳng vào hệ hô hấp, hệ thống này thay đổi áp suất không khí của môi trường bên ngoài cơ thể và gián tiếp tác động không khí lưu thông trong phổi.Những phiên bản máy thở đầu tiên như “hộp
hồi sức sơ sinh” của một bác sĩ người Áo hay “áo khoác chân không” của nhà phát minh lừng danh người Mỹ gốc Scotland Alexander Graham Bell đã dựa trên nguyên lý áp suất này.
Đầu thế kỷ XX vào năm 1928 , “máy thở áp lực âm” được phát minh từ năm 1928, bởi Philip Drinker và Louis Agassiz Shaw, hai giáo sư tại Trường Y tế Công cộng ở Boston , Massachusetts (còn được gọi là phổi sắt ban đầu được gọi là “máy hô hấp Drinker”) trở thành một trong những thiết bị thông khí được sử dụng rộng rãi nhất. Máy thở áp lực âm hoạt động bằng cách thay đổi áp suất bên trong một thùng kín chứa khí, mở rộng, co bóp ngực và đẩy không khí lưu thông trong phổi, Trong dịch bại liệt vào tháng 8 năm 1952 tại Bệnh viện Blegdam ở Copenhagen, Đan Mạch phổi sắt đã trở thành một phương pháp điều trị hồi sức tích cực đối với trẻ em mắc bệnh bại liệt
Phổi sắt bịt kín bệnh nhân, tạo ra một khoảng chân không xung quanh cơ thể họ, buộc các xương sườn, và lồng ngực phải nở ra. Và do đó, không khí sẽ tràn được vào phổi người bệnh.
Vấn đề của những chiếc phổi sắt, đó là chúng chỉ giải quyết được một phần vấn đề tê liệt. Nhiều người mắc bại liệt được đặt vào phổi sắt vẫn sẽ chết. Một trong số những biến chứng thường gặp nhất khi thở áp lực âm, đó là người bệnh sẽ hít phải nước bọt hoặc cả dịch dạ dày của chính mình vào phổi, khi mà họ đã quá yếu và không thể nuốt chúng xuống bụng.
Để giải quyết vấn đề này, bác sĩ Ibsen đã đề xuất một ý tưởng ngược lại, sử dụng áp lực dương. Anh muốn thổi không khí trực tiếp vào phổi, làm cho hai lá phổi phồng lên. Sau đó, cỗ máy sẽ được tắt đi một lúc để phổi tự động xẹp xuống, khi đó người bệnh sẽ thở được ra ngoài Để luồn được ống thở vào phổi, Ibsen đề nghị các bác sĩ rạch một khe hở trên khí quản của bệnh nhân. Vết mổ sẽ được thực hiện ở cổ, từ đó, một đường ống sẽ được luồn vào khí quản và đưa oxy đến phổi.
Trong những năm đầu tiên, cỗ máy thở áp lực dương dĩ nhiên chỉ đơn giản là một máy bơm khí. Nó thổi một dòng khí đều đặn vào phổi bệnh nhân mà không có bất kể một tính năng an toàn nào.
Năm 1907, nhà phát minh người Đức Johann Heinrich Dräger giới thiệu một thiết bị để thông khí áp lực dương tên là Pulmotor. Thiết bị này có thể cung cấp oxy vào phổi bệnh nhân thông qua một chiếc mặt nạ. Cho đến khi đạt được áp suất cần thiết, máy sẽ ngừng lại và phổi tự đẩy ra.
Các mô hình máy thở sau này, như máy hồi sức Emerson, đều được sáng chế dựa trên nguyên lý hoạt động của Pulmotor.
Vào thập niên 1950 và 1960, nếu một cỗ máy thở chẳng may bị mất điện mà không có y tá nào đứng đó phát hiện ra, bệnh nhân sẽ chết. Nhưng càng về sau, máy thở áp lực dương càng được cải tiến để khắc phục hết những khiếm khuyết này. Chúng được trang bị các thiết bị báo động, duy trì làm việc ngay cả khi mất điện.
Sự ra đời của máy tính và các tiến bộ khoa học kỹ thuật sau này có tác động rất lớn đến việc phát minh máy thở hiện đại. Bên cạnh đó là sự tiến bộ trong kiến thức y tế của đội ngũ y bác sĩ thế giới, sự thay đổi về quan niệm lượng không khí đưa vào phổi mỗi nhịp thở đã tăng khả năng sống sót cho bệnh nhân. Các máy thở hiện đại được điều khiển bằng máy tính nhỏ gọn hơn xưa, được trang bị các cảm biến, có thể dựa vào bệnh trạng của bệnh nhân để điều chỉnh các chế độ thở khác nhau ( trên 40 mode thở) phù hợp với tình hình bệnh trạng của bệnh nhân trên thực tế
Lịch sử phát triển của các mod thở trên máy thở
Nhờ vậy các bác sĩ có thể dễ dàng hơn trong vệc điều chỉnh máy cho phú hợp với bệnh lý của người bệnh hơn đó, là điều mà những máy thở ban đầu chưa hề có.
Ths. Ds Tô Minh Cường (ST)