Tinh dịch có thể gây ra phản ứng hệ thống miễn dịch trong cơ thể đàn ông hoặc phụ nữ. Các kháng thể có thể làm hỏng hoặc giết chết tinh trùng. Nếu một số lượng cao các kháng thể tinh trùng tiếp xúc với tinh trùng của một người đàn ông, thì tinh trùng đó có thể khó thụ tinh với trứng, gây ra vô sinh, hiếm muộn.
Cơ sở miễn dịch:
Miễn dịch (MD) là khả năng của cơ thể nhận ra và loại bỏ các vật lạ. Ở cơ thể người, đáp ứng MD có thể chia làm hai loại MD không đặc hiệu và MD đặc hiệu.
* Miễn dịch không đặc hiệu: Là khả năng tự bảo vệ sẵn có ngay từ lúc sinh ra, mang tính di truyền. Vì là miễn dịch không đặc hiệu nên không đòi hỏi cơ thể phải tiếp xúc trước với “vật lạ”.
* Miễn dịch đặc hiệu: Xuất hiện khi cơ thể đã tiếp xúc với kháng nguyên và có phản ứng sinh ra kháng thể đặc hiệu chống lại chúng. Ở loại miễn dịch này, có 2 đặc điểm cơ bản là khả năng nhận dạng và trí nhớ đặc hiệu về kháng nguyên.
* Kháng thể kháng tinh trùng (AntiSperm Antibodies – ASA): là một loại globulin miễn dịch của hệ thống miễn dịch có khả năng bám vào kháng nguyên IgA và IgG, có thể được tìm thấy trên bề mặt của tế bào tinh trùng, là loại kháng thể đặc hiệu tinh trùng và nó thuộc loại miễn dịch đặc hiệu.
1. Sự hình thành KTKTT như thế nào?
– Bình thường TT trưởng thành chỉ xuất hiện ở nam giới và là kháng nguyên đối với cơ thể. Trong tinh hoàn có hàng rào máu – tinh hoàn và phức hợp liên kết. Hàng rào này ngăn cản không cho TT và các sản phẩm thoái hóa của nó vào trong cơ thể, tách biệt môi trường ống dẫn tinh và máu, chúng biệt lập tiền TT và TT trưởng thành nằm phía ngoài hàng rào. Do đó, TT trưởng thành hoàn toàn cách biệt với hệ thống MD. Vì nguyên nhân nào đó gây thương tổn hàng rào máu – tinh hoàn, làm cho TT và các sản phẩm thoái hóa của nó xuất hiện trong máu sẽ khởi phát hệ thống MD sinh ra ASA. Tùy thuộc vào nơi các kháng thể được đặt, TT có thể bị ảnh hưởng theo nhiều cách. Khi các kháng thể được tìm thấy trên đuôi, TT có xu hướng được cố định hoặc có thể lại với nhau. Kháng thể đặt trên đầu ngăn chặn các TT tự động liên kết với trứng, do đó ngăn ngừa sự thụ tinh đang diễn ra. Trong một số trường hợp, chất nhầy cổ tử cung của người phụ nữ cũng có thể phát triển thành kháng thể để kháng TT của chồng. Ở phụ nữ, tinh trùng là một yếu tố “lạ” có khả năng kích thích hệ miễn dịch. Có thể tồn tại trong máu, dịch âm đạo, dịch nang trứng. Nếu chồng có ASA thì khả năng vợ có ASA sẽ cao hơn. Trong 1/3 số trường hợp, ASA của vợ chỉ phản ứng với tinh trùng của chồng. ASA có thể ảnh hưởng đến sinh sản bằng cách giảm khả năng vận động hoặc tăng số lượng TT không hoạt động, tác động đến sự xâm nhập của TT qua dịch nhầy cổ tử cung, làm biến đổi tiềm năng và phản ứng cực đầu, can thiệp vào phản ứng giữa TT và noãn. Khoảng 4.6-5.7% cặp vợ chồng vô sinh bị ảnh hưởng bởi kháng thể kháng tinh trùng.
– Các nguyên nhân gây nên hình thành ASA: thắt ống dẫn tinh, tắc ống dẫn tinh bẩm sinh hay mắc phải, sinh thiết tinh hoàn, chấn thương tinh hoàn và nhiễm khuẩn đường sinh dục.
– ASA ảnh hưởng đến sinh sản bằng cách giảm khả năng di động hoặc tăng số lượng tinh trùng không hoạt động, tác động đến việc tinh trùng qua dịch nhầy cổ tử cung, làm biến đổi tiềm năng và phản ứng cực đầu, can thiệp vào phản ứng giữa tinh trùng và noãn. Ngoài ra, ASA còn tác động đến sinh sản bằng cách làm bất động tinh trùng hoặc kết dính tinh trùng. TT sẽ nằm trong âm đạo mà không di chuyển vào buồng tử cung đến vòi trứng hay di chuyển rất ít, cũng như khả năng xâm nhập của TT qua màng pellucid của trứng để trở thành hợp tử cũng không xảy ra.
– Khi nồng độ ASA trong huyết tương của nam giới càng cao thì tỷ lệ vô sinh càng lớn. Vô sinh nam do ASA chiếm khoảng 1-6% số trường hợp vô sinh ở nam giới.
2. Chẩn đoán xác dịnh ASA
– Chủ yếu dựa vào các xét nghiệm đặc hiệu để xác định ASA là xét nghiệm MAR (Mixed antiglobulin reaction) theo cơ chế TT ngưng kết với hồng cầu cừu trong kháng huyết thanh do sự hiện diện của IgG và IgA, xét nghiệm IBT (Immunobead Test) theo cơ chế phức hợp polyacrilamids gắn kháng thể người và kháng thể chống TT. Ngoài ra, để xác định tỷ lệ và hiệu giá kháng thể ngưng kết TT trong huyết thanh sử dụng kỹ thuật xét nghiệm Franklin và Duckes.
– Xét nghiệm xác định ASA dùng trong các trường hợp: TT kết dính trong tinh dịch, TT chuyển động kém, số lượng TT thấp, vô sinh tiên phát và trước khi nối ống dẫn tinh.
3. Điều trị KTKTT
– Điều trị vô sinh nam ASA bằng nhiều biện pháp như: sử dụng chất ức chế miễn dịch, thụ thai bằng phương pháp bơm TT vào buồng tử cung với TT của người chồng, thụ thai trong ống nghiệm, thụ thai bằng cách tiêm TT vào bào tương của noãn.
Chỉ định điều trị thường chỉ tiến hành ở bệnh nhân có mẫu tinh dịch mà trên 50% lượng TT bị ngưng kết vì kháng thể, khi kết quả thử nghiệm sau giao hợp có số lượng TT ngưng kết bình thường thấp.
– Phương pháp ức chế MD dùng corticoid có thể làm giảm sản xuất kháng thể và sự kết dính giữa kháng thể – kháng nguyên. Trong y văn chưa có sự thống nhất về liều lượng, điều trị từng đợt hay kéo dài. Do đó, việc điều trị ức chế MD ở vô sinh nam có ASA phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Kết quả sau thụ thai sau điều trị 34%.
– Phương pháp bơm TT vào buồng tử cung (IUI – Intra uterine Insemination). Trong tác động đến sinh sản của TT, thì sự kết hợp giữa TT với globulin MD có thể chỉ ức chế một bước chức năng xâm nhập qua chất nhầy, trong khi xâm nhập trứng vẫn tồn tại, thụ thai trong buồng tử cung sẽ là liệu pháp cần thiết. Thủ thuật có thể sử dụng TT người chồng đã rửa lọc TT (lọc rửa TT với mục đích loại bỏ kháng thể gắn lên màng TT). Kỹ thuật IUI gồm các bước: dùng thuốc kích thích noãn với clomiphen citrat kèm với pregnyl, theo dõi sự phát triển của nang noãn bằng siêu âm và định lượng nội tiết E2 trong huyết thanh, tiêm HCG gây rụng trứng, bơm TT đã lọc rửa vào buồng tử cung. Theo dõi chăm sóc sau khi bơm TT vào buồng tử cung, dùng thuốc ức chế co bóp sau đó hỗ trợ hoàng thể bằng progesteron. Kiểm tra kết quả có thai sau 2 tuần bằng xét nghiệm định lượng beta HCG và siêu âm tìm túi thai trong tử cung sau khi bơm TT vào buồng tử cung.
– Phương pháp thụ thai trong ống nghiệm (IVF) ở người chồng có TT kết hợp với globulin miễn dịch với kết quả có thai 27%. Ngày nay, với kỹ thuật tiêm TT vào bào tương của noãn (ICSI) bước đầu cho kết quả thụ thai và sinh sản cao hơn, kỹ thuật này cũng được chỉ định cho những nam giới vô sinh có kháng thể chống TT đã làm thụ thai trong ống nghiệm thất bại.
Tóm lại, việc điều trị vô sinh nam do ASA bằng các phương pháp IUI, IVF và ICSI đã mang lại nhiều kết quả cho người bệnh với niềm mong muốn có con ở những cặp vô sinh hiện nay mà nguyên nhân do TT mang kháng thể chống TT.
CN. Tôn Hoàng Dũng